Thực đơn
Nicomachean_Ethics Tóm tắtNhà triết học đầu tiên viết các chuyên luận về đạo đức, Aristotle lập luận rằng cách tiếp cận đúng đắn để nghiên cứu các chủ đề gây tranh cãi như Đạo đức hay Chính trị, là phải luận về những gì đẹp hoặc những gì công bằng, là bắt đầu với những gì sẽ được mọi người đồng ý là đúng và có thể trải nghiệm từ thực tiễn, và từ đó đạt được trí tuệ cao hơn.[3][4]
Theo cách tiếp cận này, Aristotle bắt đầu bằng cách nói rằng lợi ích cao qúy nhất cho con người, mục đích cao cả nhất của mọi suy nghĩ thực tiễn của nhân loại, là hạnh phúc eudaimonia, một từ Hy Lạp thường được dịch là hạnh phúc. Aristotle lần lượt lập luận rằng hạnh phúc có thể được hiểu như một hoạt động liên tục và ổn định năng động của tinh thần, một cách hiện hữu trong hành động (energeia), thích hợp đặc biệt cho " linh hồn " của con người (psuchē), ở trạng thái "tuyệt đỉnh" hay chí đức (dịch đức Arete trong tiếng Hy Lạp). Nếu có một vài đức tính thì những điều tốt nhất và đầy đủ nhất hoặc hoàn hảo nhất trong số chúng sẽ là điều hạnh phúc nhất. Một con người xuất sắc sẽ là một người sống tốt và sống đẹp (kalos). Aristotle nói rằng một người như vậy cũng sẽ là một con người nghiêm túc (spoudaios), theo cùng nghĩa "nghiêm trọng" mà người ta dùng để phân biệt với người chơi nhạc nghiêm túc và người chơi nhạc cho vui. Ông cũng khẳng định như một phần của điểm khởi đầu này rằng đức tính đối với con người phải liên quan đến lý trí trong suy nghĩ và lời nói (logo), vì đây là một khía cạnh (ergon, nghĩa đen là một nhiệm vụ hoặc công việc) của cuộc sống con người.[5]
Từ điểm này, Aristotle bàn sâu hơn về đạo đức là gì. Đạo đức Aristoteles mô tả cách để tạo ra một nhân cách chí đức (ethikē aretē), từ đó tạo nên một cuộc sống hạnh phúc. Ông mô tả một chuỗi các bước cần thiết để đạt được điều này: Đầu tiên, hành động đúng đắn dưới sự chỉ dạy của thầy, điều này cho phép thói quen đúng đắn. Sau khi đạt được thói quen đúng đắn, các nhân cách tốt và ổn định dần phát triển và trở thành cơ hội cho trạng thái hạnh phúc eudaimonia biểu lộ.[6] Nhân cách ở đây dịch là Ethos trong tiếng Hy Lạp, liên quan đến từ hiện đại như đạo đức, đạo đức và đặc tính. Tuy nhiên Aristotle không đánh đồng nhân cách với thói quen (ethos trong tiếng Hy Lạp, với một chữ "e" ngắn) vì tính cách thực sự liên quan đến sự lựa chọn có ý thức, không giống như thói quen. Thay vì là thói quen, nhân cách như một hình lục giác giống với sức khỏe hoặc kiến thức, có nghĩa là nó là một định hướng ổn định phải được theo đuổi và duy trì với nhiều nỗ lực. Tuy nhiên, những thói quen tốt được mô tả như một điều kiện tiên quyết cho nhân cách tốt.[7]
Aristotle sau đó chuyển sang các ví dụ, xem xét một số trường hợp cụ thể mà dân gian cho là đáng chê trách hoặc tôn sùng. Ông mô tả các loại tôn sùng cao nhất, cũng là những đạo đức tối cao, từ đó luận ra rằng chí đức là khi có tất cả các đức tính của nhân cách cùng một lúc, và những điều này không chỉ ám chỉ tính cách tốt, mà còn là một loại trí tuệ.[8] Bốn đức tính mà ông đòi hỏi phải sở hữu các đức tính cùng nhau là:
(Trong Eudemian Đạo đức (Sách VIII, chương 3) Aristotle cũng sử dụng từ " kalokagathia ", sự quý tộc của con người (kalokagathos), để mô tả khái niệm đức tính chứa tất cả các chân lý đạo đức.)
Phong cách này cấu trúc nên một bức tranh mà trong đó những đức tính đáng khen ngợi ở dạng cao nhất của chúng trở nên rõ ràng, ngay cả những đức tính như lòng can đảm, dường như đòi hỏi đức tính trí tuệ nằm trong nó, đó là một chủ đề thảo luận mà Aristotle chọn để liên hệ trong Nicomachean Ethics với Socrates, và điều đó cũng được tìm thấy trong các cuộc đối thoại Socrates của Plato.[13] Aristotle cũng tự mình làm điều này, và mặc dù ông tuyên bố sẽ làm việc khác với Plato bằng cách cố gắng bắt đầu với những gì mà những người được nuôi dạy tốt sẽ đồng ý, trong sách VII Aristotle cuối cùng đã cho rằng đạo đức cao nhất của con người là không thực tế, mà chỉ có thể là trí tuệ chiêm nghiệm (theōria 1177a). Nhưng đạt được điều kiện tối cao này không thể tách rời khỏi việc đạt được tất cả các đức tính của nhân vật chí đức, hay "các đức tính đạo đức".[14]
Cách Aristotle phác họa những điều tốt đẹp nhất cho con người liên quan đến cả hai khía cạnh thực tiễn và lý thuyết, cả hai tổng hòa lẫn nhau, cũng theo truyền thống của Socrates và Plato, đối lập với triết học tiền Socrates. Như Burger (2008)Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFBurger2008 (trợ giúp) chỉ ra (p. 212): - " Đạo đức không kết thúc ở đỉnh cao rõ ràng, xác định hạnh phúc hoàn hảo với cuộc sống dành cho các vị thần, thay vào đó, nó tiếp tục đưa ra nhu cầu nghiên cứu về pháp luật, với nền tảng rằng chỉ biết về đức hạnh là không đủ, mà phải vận dụng vào thực tiễn. " Vào cuối cuốn sách, theo Burger, người đọc cẩn thận sẽ tìm được dẫn dắt để hiểu rằng "nhân quả mà chúng ta đang tìm kiếm là những gì chúng ta đã và đang thực hành" trong khi thực thi Đạo đức. (p. 215)
Thực đơn
Nicomachean_Ethics Tóm tắtLiên quan
Nicomachean Ethics Nicomedes I của Bithynia Nicomedes IV của Bithynia Nicomedes II của Bithynia Nicomedes III của Bithynia Nicomioides larvatus Nicolaus Copernicus Nicolas Jackson Nicolas Anelka Nicolae CeaușescuTài liệu tham khảo
WikiPedia: Nicomachean_Ethics http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse...